Kỳ 1: truyền thuyết về cafe
thời điểm cuối thế kỷ XVI, khi những giáo sĩ Bồ Đào Nha mang lại vùng cao nguyên Êthiopia xa xôi của châu Phi nhằm truyền giáo. Họ thấy rất khá các thổ dân bị căn bệnh buồn ngủ. Người bị bệnh này lúc nào cũng thấy uể oải, lờ đờ và có cảm giác tiếp tục buồn ngủ. Họ có thể ngủ trong lúc đang đi lấy quốc tế suối hoặc đang làm những công việc lao động giản đơn, mặc dù họ sẽ ngủ các rộng gấp 2-3 lần người khác hay thậm chí đã ngủ suốt một ngày dài . bởi vậy những người mắc bệnh này làm việc có hiệu quả rất thấp hoặc có thể rất nguy nan như trong lúc đang săn bắn, lái xe, ví dụ điển hình …Xem thêm tại : http://caphechonvn.com
Bệnh do một loại ruồi sống bằng chích hút máu nhiều con vật lớn như trâu, bò, lạc đà, ngựa …trong lúc chích hút, ruồi tiết ra một loại độc tố làm mang đến máu không đông. Chính loại độc tố này sẽ làm các con vật không ngủ được, ốm dần. Đồng thời ở khu vực vết chích máu cứ rỉ ra thời nay sang ngày khác làm mang đến con vật kiệt sức rồi chết. Khi số gia súc bị ít dần mà đàn ruồi sinh sản ngày càng những lên nên đã dẫn đến việc chúng tấn công cả sang nhân sự để chích hút máu.những thầy lang địa phương sẽ chữa bệnh này bằng giải pháp hái một loại quả nhỏ như quả anh đào, tách lấy hạt bỏ lên bếp lửa nướng cháy. mang đến khi quả tỏa ra một mùi thơm liền đưa cho người bệnh nhai nát ra và nuốt. Điều làm cho nhiều giáo sĩ và nhiều thầy thuốc phương Tây đáng ngạc nhiên rộng là chỉ một lát sau người bệnh trông khỏe hẳn ra, ăn nói huyên thuyên và nhảy múa một giải pháp thư giãn đầy phấn khích. một trong những thổ dân không biến thành bệnh cũng lấy hạt đã nướng nhai nuốt và cho thấy một kết quả tựa như .
cũng phải phân biệt một loại bệnh buồn ngủ của người mà Lý Do là một do thiểu năng tuần hoàn não. Do lượng máu được bơm lên não bộ tránh nên não bị thiếu oxy làm đến người bệnh liên tiếp có cảm nhận thiếu ngủ. Bệnh rất nguy nan đối với những người làm các công việc yên cầu sự tỉnh táo, triệu tập cao độ như lái xe ví dụ điển hình .
Từ đó hạt cà phê được mang về Châu Âu nhưng phải hơn thế kỷ sau còn mới trở thành một thức uống trước tiên là ship hàng mang đến giới quý tộc cung đình rồi từ từ mới mẻ lan tỏa vào dân gian.
nếu như cây cafe được di thực qua Châu Á bởi người Bồ và người Pháp thì lại theo người Tây Ban Nha sang Nam Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII. Rất nhanh chóng , cây cafe đã trở thành cây bản địa bởi nhờ sự yêu thích hợp của nhiệt độ và thổ nhưỡng ở những vùng đất ở trong địa này.
có một truyền thuyết thần thoại nữa được lưu truyền trong thế giới Ả rập do những đoàn thương nhân phương Tây kể lại khi đưa cà phê là 1 trong thứ đồ uống mới từ vùng Cận Đông về Châu Âu. Người Ả rập cho rằng một số con dê trong những đàn dê của thổ dân Bắc Phi được chăn thả tự nhiên và thoải mái đã nhảy nhót một biện pháp vui vẻ không biết mệt mỏi mỏi mang đến tận đêm khuya sau thời điểm ăn một loại quả chín trên các cây mọc thoải mái và tự nhiên dưới tán rừng già. Và hầu như từng lần được thả ra số con dê đó cũng nhanh chóng chạy vào rừng tìm ăn loại quả kỳ lạ ấy. các thầy tu của một tu viện gần đó đã thử uống nước ép ra từ loại quả đó và tỉnh táo cầu nguyện truyện trò cho cho tận đêm khuya. Từ đó thần thoại mang lại rằng con người sẽ biết đến cây cafe là dựa vào những đàn dê của thổ dân này.
tuy nhiên thần thoại này thiếu tính phù hợp vì quả cafe với lớp xen-lu-lô tạo nên thành vỏ bao phủ nhân nên không thể tiêu hóa trong bao tử của bất kì loài động vật nào (nên mới mẻ xuất hiện cafe Chồn). Và quả cafe nếu như không được rang hoặc nướng chín lên thì không chuyển hóa được chất cafein để tạo thành một chất kích yêu thích thần kinh.
Nhưng không phải thổ dân Châu Phi mà chính người Ả rập đã tìm ra giải pháp pha chế loại quả ấy thành một thứ đồ uống từ vào cuối thế kỷ XV mà về sau được họ đặt mang đến cái tên là cà phê